Trung học Nông Lâm Súc Cần Thơ
  Biến đổi khí hậu - Phần 3 - Tiếp theo
 

 Tiếp theo trang 1

Ảnh hưởng của hiện tượng hâm nóng hoàn cầu lên nông nghiệp Việt Nam
 
Phần 3. Việt Nam phải làm gì để giảm thiểu
“khí thải nhà kiếng” gây hâm nóng hoàn cầu

Máy nhiệt-điện. Hiện tại Việt nam có 5 nhà máy nhiệt-điện-đốt-than-đá lớn (Phả Lại, Uông Bí, Ninh Bình, Thủ Đức, Trà Nóc) và một số nhà máy nhỏ. Nhà máy nhiệt điện Phả Lại lớn nhất VN, có công suất 440 MW, hàng năm sản xuất 2,1 tỉ kWh, tiêu thụ khoảng 1,5- 1,6 triệu tấn than anthracite. Theo kế hoạch, nhà máy điện Phả Lại sẽ được tăng công suất thêm 600 MW với công nghệ lò than phun. Nhà máy nhiệt điện Cần Thơ tại Trà Nóc có công suất 200MW. Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, chạy than đá, do Trung quốc thiết kế, có công suất trong thời gian đầu là 600 MW, thời gian sau là 1200 MW. Ngoại trừ nhà máy điện nhỏ thuộc Công ty Giấy Bãi Bằng sử dụng công nghệ đốt tầng sôi, các nhà máy khác đều sử dụng công nghệ lò than phun.

 Trung bình, một nhà máy nhiệt-điện-đốt-than cứ mỗi 1,000 MW thải hồi khoảng 6 triệu tấn khí CO2 mỗi năm. Hàng năm, các nhà máy nhiệt-điện-đốt-than ở VN cũng thải ra khoảng 750-800 ngàn tấn than xỉ, trong số đó nhà máy nhiệt điện Phả Lại chiếm phần lớn, khoảng 500-550 ngàn tấn than xỉ, gồm 120-130 ngàn tấn xỉ (24%), và 380-420 ngàn tấn tro (76%). Số lượng tro, xỉ than tích tụ từ ngày hoạt động 1983 tới nay là 7-10 triệu tấn. Một khi được tăng cường công suất thêm 600 MW, nhà máy Phả Lại sẽ  thải ra trên 1 triệu tấn than xỉ một năm. Trong xỉ, phần than chưa cháy hết còn nhiều. Do đó, hầu hết các loại xỉ than này đều được người dân quanh nhà máy sử dụng lại làm nhiên liệu cho lò gạch, lò đốt vôi và nhà bếp.
Các kết quả thí nghiệm cho thấy trong than xỉ của nhà máy Phả Lại đều chứa các nguyên tố gây ô nhiễm môi trường  như As, Zn, Cr và Pb, Cd, Hg, Co và Ni. Thuỷ ngân (Hg) rất độc hại cho sức khoẻ và thế giới đã cấm làm nhiệt kế thuỷ ngân.
 
Hiện tại, trên thế giới chưa có một kỹ thuật “làm sạch” đại trà nào để giảm thiểu khí CO2 và bụi ô nhiểm của nhà máy-nhiệt-điện-đốt-than-đá. Việc hoạch định xây dựng thêm 17 nhà máy-nhiệt-điện-đốt-than-đá ở VN trước 2025 cần phải xét lại.
 
VN đã bắt đầu sử dụng khí thải mỏ dầu Côn Sơn để chạy nhà máy nhiệt-điện-khí Phú Mỹ (trên đường ra Vủng Tàu), hiện cung cấp 35% điện năng cho cả nước. Nhà máy nhiệt-điện-khí Ô Môn sẽ hoàn tất năm 2008 với kinh phí 550 triệu USD, tiêu thụ khoảng 4 triệu m3 khí đốt/năm, có công suất giai đoạn đầu là 600 MW, sau đó sẽ được nâng cấp lên 1,200 MW.
 
VN sẽ thiết lập thêm 3 nhà máy nhiệt-điện-khí nữa. Nhà máy điện Cà Mau thuộc công trình Cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau ở xã Khánh An, huyện U Minh, Cà Mau, hiện đang xây dựng áp dụng công nghệ tua-bin khí chu trình hỗn hợp với công suất 750MW.
 
Tương đối, nhà máy nhiệt-điện-khí ít tạo ô nhiểm hơn, và sử dụng tiềm năng dồi dào của các mỏ dầu ở VN, là điều nên hướng tới. Chẳng hạn, riêng bồn mỏ dầu trũng Nam Côn Sơn, cách Vũng Tàu 370 km, có trữ lượng 58 tỉ m3 khí đốt. Hai mỏ Lan Tây - Lan Ðỏ có khả năng cung cấp một sản lượng khí trung bình 3 tỉ m3 /năm cho các nhà máy điện trong khoảng 20 năm để tạo ra 12 tỉ kWh điện mỗi năm, tương đương với 40% nhu cầu sử dụng điện năng hiện thời của Việt Nam.
 
Thuỷ điện. Là nguồn điện rẻ, sạch và dồi dào ở Miền Bắc, Miền Trung, Cao nguyên và Miền Đông. Hiện tại VN chỉ mới sử dụng 15% tiềm năng thuỷ điện của VN. Tiềm năng thuỷ điện của VN khoảng 17,400 MW.
 
Kể từ 1960, VN đã có các nhà máy thuỷ điện, như Đa Nhim ở Đơn Dương (công suất 160 MW, sản xuất 1 tỉ kWh/năm), Trị An ở Đồng Nai (sản xuất 1.7 tỉ kWh/năm), Thác Bà ở Yên Bái (công suất 108 MW, sản xuất 400 triệu kWh/năm), Đại Ninh ở Bình Thuận (300 MW), Vĩnh Sơn – Sông Hinh Bình Định (300 triệu kWh/năm), v.v. Riêng trên sông Đồng Nai đã có 4 nhà máy thuỷ điện.
 
VN dự trù thiết lập 22 nhà máy thuỷ điện từ nay đến 2010, với tổng công suất khoảng 4,000 MW. Hiện tại (2007), 8 nhà máy thuỷ điện [Srok Phu Miêng (Bình Phước), Sê San 3A (Kontum), Ea Krông Rou (Khánh Hoà), Thác Trắng (Điện Biên), Nà Loà (Cao Bằng), Krông Hin (Đắc Lắc), H’Chan (Gia Rai), và Dăk Nông (Bình Phước) vừa hoàn thành, đóng góp tổng cộng 163 MW. Nhà máy thủy điện A Lưới (Thừa Thiên) bắt đầu được xây dựng (2007) và sẽ hoàn thành năm 2010, trên sông A Sáp, công suất 170 MW, sẽ sản xuất khoảng 686 triệu kWh/năm. Trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện có 15 nhà máy thuỷ điện đang được xây dựng, với tổng công suất là 250MW.
 
Dự án thuỷ điện Sơn La, trên Sông Đà, bắt đầu xây dựng năm 2006, sản xuất điện năm 2010, và hoàn thành toàn diện vào 2015, với công suất 2,400MW, cung cấp 10,2 tỉ kWh mỗi năm, sẽ là nhà máy thuỷ điện lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á.
 
Lập thêm các hồ chứa nước ở Miền Bắc, Cao nguyên và Miền Trung, vừa giảm được lụt lội trong mùa mưa, vừa cung cấp nước trong mùa khô. Dỉ nhiên, khi thành lập hồ chứa nước, sẽ có phản đối từ dân chúng địa phương, nhưng nếu có kế hoạch đền bù và định cư thoả đáng, sẽ giải quyết tốt đẹp. Các nhà môi sinh cũng sẽ phản đối, nhưng phải đặt quyền lợi, phồn vinh của đất nuớc lâu dài hơn cái nhìn thiển cận trong ngắn hạn. Môi trường mới cũng sẽ được thiên nhiên tái tạo trong lâu dài.
 
Điện nguyên tử là nguồn điện rẻ và sạch. Chính phủ Hoa Kỳ đã hứa giúp VN tạo điện nguyên tử, và lò nguyên tử tạo điện năng này sẽ hoàn tất vào 2020. Liên Hiệp Quốc qua cơ quan IAEA cũng cho phép VN xây dựng 6 nhà máy điện nguyên tử với điều kiện là VN phải có bộ luật điện nguyên tử trước. Tháng 7/2007, Chính phủ Pháp hứa giúp huấn luyện và cố vấn pháp lý bộ luật điện nguyên tử cho Việt Nam.
 
Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam có tổng vốn đầu tư khoảng 3,400 triệu USD sẽ được xây dựng tại xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Nhà máy gồm 2 tổ máy với tổng công suất dự kiến 2,000 MW, khi đi vào hoạt động sẽ cho sản lượng điện từ 14-15 tỉ kWh/năm. Một nhà máy thứ 2 dự trù ở Phú Yên.
 
Tuy nhiên, các lò nguyên tử này có được an toàn hay không, khi thiết kế ở vùng đông dân cư? Ngay như Nhật Bản và Hoa Kỳ, nơi có nền khoa học tiên tiến nhất, có đội ngủ khoa học tài giỏi nhất còn e ngại về sự an toàn, sự mất cắp nguyên liệu và tồn trử phế thải phóng xạ của các nhà máy điện nguyên tử (Tôn Thất Trình 13, 14). Ngoài ra yếu tố chính trị phải thật minh bạch, nếu không sẽ gặp vấn đề như Bắc Hàn và Iran hiện nay.
 
Phong điện hay máy-điện-xa-quạt-gió. Chiều hướng phát triển điện năng của thế giới hiện nay là phong điện (windfarm), vừa rẻ tiền, vừa không phóng thích khí ô nhiểm, kỷ thuật cũng đơn giản, an toàn mà bất cứ quốc gia nào cũng có thể tự chế tạo được. Hiện nay, Đức có một hệ thống phong điện lớn nhất thế giới, đặt dọc bờ biển, tổng công suất 20,000 MW. Anh quốc dự trù cung cấp 10% điện gia cư vào năm 2010 bằng phong điện. Tính đến tháng 5/2006, Anh quốc đã thiết lập xong 5 trung tâm phong điện, với tổng cộng 122 turbines, công suất tổng cộng 340 MW; 10 trung tâm sẽ hoàn tất trong 2007 với 631 turbines, công suất tổng cộng 2,112 MW.
 
Phong điện kiểu Anh quốc có thể sản xuất đạt 27% khả năng của gió tối đa, so với 20% ở Đan Mạch và 15% ở Đức. Vấn đề khó khăn của phong điện là không sản xuất điện khi không có gió. Đa số địa phương chỉ có gió một phần trong ngày. Để giải quyết vấn đề này, các nước Tây Âu thiết lập một mạng lưới phong điện chung (supergrid of interconnected windfarms), nơi nào không có gió thì điện được chuyển tới từ nơi có gió.
 
Hiện tại, VN đã có Nhà máy Bạch Long Vĩ khánh thành năm 2004, công xuất là 800 KW (Tôn Thất Trình, 14). VN dự trù thiết lập một trạm phong điện ở đảo Chim thuộc Côn Đảo với công xuất 6-7.5 MW do Thuỵ Sỉ tài trợ, ở Bình Định với 50.4 MW do Đan Mạch tài trợ.
 
 
Một turbine phong điện tại thành phố Reading (nơi tác giả cư ngụ), trụ cột cao 85 m, kiểu Enercon E-70, 3 cánh quạt dài 33m, quay 6-21 vòng/phút, tuỳ vận tốc gió, sản xuất tối đa 2.05 MW với vận tốc gió 14m/giây, không gia tăng nếu quá vận tốc này. Turbine này cung cấp điện cho 1,000 nhà ở Reading.
 
 
Tiềm năng phong điện của VN rất lớn, vì VN có bờ biển rất dài (3,200km), và khoảng 2,773 hải đảo lớn nhỏ, có gió quanh năm, gồm gió nồm (mùa hè) và gió bấc (mùa đông), và hầu hết cả ngày lẩn đêm đều có gió. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới trong Chương trình đánh giá về năng lượng cho Á Châu, Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng về năng lượng gió cao nhất Đông Nam Á, với 513,360 MW, tức là hơn 200 lần công suất của thủy điện Sơn La khi hoàn tất, và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện Việt Nam năm 2020 (Mai Thanh Truyết 18).
 
Việt Nam nên phát triển điện năng bằng phong điện, vì rẻ tiền (một phong điện 4.8 MW khoảng 3.5 triệu USD), dể điều hành sửa chửa, có thể đặt dọc bờ biển, trên cao ốc trong thành phố, trên đỉnh đồi, trong đồng bằng, nơi đèo heo gió hút, các hải đảo nhỏ, hay nơi không có mạng lưới điện cung cấp, v.v. Các vùng có nhiều gió như duyên hải Trung Việt, vùng gió Lào ở Bình Trị Thiên và Tây nguyên, cũng là vùng nghèo nhất đất nước, cần thiết lập phong điện để cung cấp điện rẻ tiền cho lảnh vực nông nghiệp, đặc biệt bơm nước đến vùng đất khô cằn, đồi trọc để tái canh tác.
 
Điện mặt trời (Solar energy). Với khoảng 250 giờ nắng/năm ở đồng bằng Cửu Long và 300 giờ nắng vùng duyên hải Trung Việt, tiềm năng điện mặt trời rất lớn ở VN. Ngay trong mùa mưa ở ĐBCL (tháng 5 tới tháng 10), thông thường sáng nắng chiều mưa, cũng đủ sản xuất điện cho nguyên ngày, nếu có phương pháp tích trử điện. Tại VN, mỗi 1 m2, có khả năng sản xuất từ 200 đến 1,200 Watts, tuỳ theo vùng và tuỳ loại máy. Nhiều nhà ở vùng ĐBCL đã trang bị máy phát điện mặt trời để thắp đèn, chạy tủ lạnh, TV. Tại các thành phố, nhiều gia cư đã trang bị máy đun nước nóng, 1 m2 tấm-quang-điện(panel) có thể dùng đun nước nóng 6-7 giờ mỗi ngày, cho bồn tắm, nhà bếp hay chưng nước cất, v.v. Hiện tại trên thị trường VN có bán rất nhiều kiểu máy nhỏ sử dụng cho gia cư. Các đại học kỷ thuật VN cần phải nghiên cứu để hoàn thiện kỹ thuật, tạo các tấm-quang-điện lớn đặt trên các đồi trọc ở Miền Trung để tạo điện rẻ tiền dùng trong nông nghiệp (bơm nước, chế biến nông sản, v.v.). Việc bơm nước được lên các đồi trọc sẽ giải quyết được vấn đề tái canh và gây rừng, trong kế hoạch kết hợp giữa Nông Lâm và quang điện trên vùng đất cằn cổi và đồi trọc ở Miền Trung và Tây nguyên. Kinh nghiệm ở Mali (Phi châu sa mạc) có thể áp dụng được cho Miền Trung; những tấm-quang-điện 5m x 5m được nối tiếp nhau để tạo điện dùng bơm nước từ giếng sâu ở vùng sa mạc. Điện cũng được tốn trử trong các bình chứa điện để dùng khi không có ánh nắng (GS Thái Công Tụng, liên lạc cá nhân). Đồi trọc thì đầy dẩy ở khắp vùng duyên hải Miền Trung, đặc biệt nhiều từ Thanh Hoá đến Quảng Ngải. Để tái canh đồi trọc, áp dụng băng cỏ Vetiver chạy theo đồng độ cao để chống soi mòn, giữa các băng thảo mộc này đặt tấm-quang-điện để bơm nước từ suối hay giếng ở chân đồi.
 
Nhiệt điện địa chất (geothermal electricity). Tiềm năng điện từ nước nóng địa chất ở VN khoảng 400 MW, chỉ thua Nhật (458 MW), nhưng hơn Indonesia (379 MW) và New Zealand (300 MW). Những vùng có nhiều nguồn suối nóng địa chất nằm rải rác ở Miền Bắc, đặc biệt ở Miền Trung như Lệ Thuỷ (Quảng Bình), Mộ Đức, Nghĩa Thăng (Quảng Ngải), Hội Văn (Bình Định), Tư Bông, Danh Thạnh (Khánh hoà). Mỗi suối có khả năng sản xuất từ 20 đến 50 MW. Việt Nam chưa chú trọng vào nguồn điện này.
 
Điện sóng biển. Đây có thể là một tiềm năng dồi dào của VN trong tương lai (Tôn Thất Trình 15).
 
Giảm sử dụng nhiên liệu đốt cháy trong tiểu công nghệ và gia cư.Xăng, dầu lửa, than đá, than củi, củi, tro trấu, mạc cưa v.v. thường được dùng để đốt lò thủ công (lò bánh, lò gạch, lò vôi, v.v.) hay nấu bếp. Có thể thay thế bằng khí-sinh-học, khí thắp từ mỏ dầu, và điện một khi các công nghệ sản xuất điện sạch với giá rẻ. Việt Nam đang phát triển nên xây cất nhiều nhà cửa. Việc sử dụng than xỉ của các nhà máy-điện-chạy-than, hiện nay có khoảng 10 triệu tấn than xỉ phế thải lộ thiên ở nhà máy Phả Lại, để sản xuất gạch môi sinh (Tôn Thất Trình 15) cũng là một cách giải quyết tốt đẹp. Trong nhà, tiết kiệm điện bằng xử dụng đèn hùynh quang (compact fluorescent) (một watt cho 75 lumens) thay thế đèn bóng có giây cháy sáng (Incandescent light) (một watt chỉ cho 15 lumens).
 
Giảm khí thải từ xe động cơ (xe chuyển vận hàng hoá, xe hơi nhà, xe gắn máy, v.v.). Xăng-sinh-học (bio-fuel)- hợp chất rượu cồn (ethanol) với xăng - đã được sử dụng từ hàng thập niên nay ở Âu Châu để chạy động cơ lớn và xe bus. Khí-hoá-lỏng (Liquidified petroleum gas, LPG), là một hợp chất khí propane và butane được ép dưới áp suất cao thành lỏng, là khí phế thải ở các giếng dầu và nhà máy lọc dầu trước đây. Công ty dầu BP sản xuất 6.4 triệu LPG năm 2001. LPG được dùng cho gia cư, nông nghiệp (sưởi ấm nhà kiếng trong mùa đông) và chạy xe hơi. Thế giới hiện tại có khoảng 9 triệu xe hơi chạy LPG, riêng Úc đã có nửa triệu xe hơi chạy bằng LPG (khoảng 5% tổng số xe hơi của Úc). Để khuyến khích giảm khí thải từ xe hơi nhà, chánh phủ Anh đánh thuế nhẹ trên LPG (nên giá LPG chỉ bằng nửa giá xăng thông thường), cung cấp ngân khoản với lải nhẹ để đổi động cơ từ xăng thường sang LPG, và đánh thuế lưu thông (road tax) rất nặng cho xe hơi nhà có động cơ lớn chạy xăng thông thường.
 
Việt Nam với phong phú dầu mỏ cũng nên theo đà phát triển này để sản xuất LPG một khi nhà máy lọc dầu Dung Quất hoàn thành. VN hiện nay có trên 30 triệu xe gắn động cơ (Honda), tạo ô nhiểm, gây nhiều tai nạn (7,000 người chết trong 6 tháng đầu năm 2007). Cần phải chuyển hướng từ từ sang lưu thông công cộng (dùng xe bus), giảm lần số lượng honda lưu thông. Biện pháp hửu hiệu nhất để giảm số lượng xe honda lưu thông là đánh thuế thật nặng một lần khi mua xe mới, đồng thời cải thiện phương tiện lưu thông công cộng rẻ và tiện lợi cho người dân. Sử dụng điện mặt trời để chạy xe hơi là trong tầm tay của thập niên tới.
 
Trồng cây công nghiệp đa niên và cây rừng. Một cây trung bình (vài ba mét) mỗi năm lấy thật sự từ khí quyển khoảng 30 kg khí CO2 (sau khi trừ phần hô hấp thải vào khí quyển), còn một cây lớn có thể lấy từ 300 đến 400 kg/năm. Một ha trồng lúa 3 vụ/năm mỗi năm lấy khoảng 4.8 tấn CO2 từ khí quyển để tạo thành chất khô (lúa và rơm rạ), nhưng rơm và gạo chạy vào dây-chuyền-thực-phẩm, nên số lượng khí này được thải lại vào không khí sau đó. Chỉ có những thực vật đa niên, sống từ chục năm trở lên, mới tồn trử được C dưới dạng rắn và bền vửng trong thân và rể.
 
Việt Nam hiện có khoảng 583.6 triệu m3 (tài liệu năm 1995) gổ trên cây sống trong rừng, và hàng năm cây rừng sinh trưởng thêm khoảng 1.5% qua lục hoá, tức khoảng 8.8 triệu m3 gổ/năm. Cứ trung bình 1 m3 gổ nặng 0.5 t (chẳng hạn thông 0.53 t/ m3), thì hàng năm rừng VN rút từ khí quyển khoảng 3.4 triệu tấn CO2 để biến thành gổ (dạng C bền vững). Hiện tại, 5 nhà máy nhiệt-điện-đốt-than lớn của VN, có tổng cộng công suất 1,500 MW, thải hồi ít nhất 9 triệu tấn CO2/năm vào khí quyển. Như vậy rừng (khoảng 5 triệu ha rừng khá tốt), cây công nghiệp (khoảng 250,000 ha cao su) và nhiều loại cây khác chỉ mới hấp thụ khoảng 40-50%% số lượng khí CO2 sa thải bởi 5 nhà máy nhiệt điện này mà thôi. Cũng nên nhớ rằng, hàng năm VN phá rừng khoảng từ 100,000 tới 200,000 ha trong thập niên 70s và 80s để canh tác nông nghiệp, xuất khẩu gổ và sản xuất than, củi. Riêng phần than củi, hàng năm VN lấy từ rừng 12.4 triệu tấn củi dùng để đốt bếp và lò than, lò gạch (Truong & Cu, 2004). VN vì vậy cần phải có chương trình trồng nhiều cây đa niên công nghiệp sống lâu như cao su, dừa, dừa dầu, v.v. và cây rừng hơn nữa, ngoài việc bảo dưởng rừng hiện tại. Ít nhất, trồng lại rừng lên 20 triệu ha của thời 1940s, tăng diện tích cao su lên 1 triệu ha (Tôn Thất Trình 16), gia tăng diện tích trồng dừa, dừa dầu, chà là, và cây đa niên trường thọ khác mới đủ khả năng hấp thụ CO2 từ các nhà máy nhiệt-điện-chạy-than.
 
Bảo vệ môi trường biển. Biển hấp thụ nhiều CO2 cho phiêu sinh thực vật và tảo lục hoá. Mặc dầu tổng số lượng sinh thể (biomass) trong đại dương chỉ bằng 0.05% trên đất liền, nhưng đại dương hấp thụ C cũng gần bằng thực vật trên đất liền, trung bình mỗi năm đại dương hấp thụ thật sự được 48.5 x 103 triệu tấn Carbon (sau khi trừ phần hô hấp), và thực vật trên đất liền toàn cầu hấp thụ 56.4 x 103 triệu tấn Carbon (sau khi trừ phần hô hấp) (Falkowski et al., 1998). Hiện tại đang có nhiều nghiên cứu để gia tăng số lượng C hấp thụ bởi vi sinh vật trong nước biển, như việc bón sắt (Fe) làm gia tăng số lượng phiêu sinh thực vật và cố định C, nhưng chưa biết rỏ ràng hậu quả của việc bón chất sắt vào nước biển vào các địa hạt môi trường khác. Trong khi chờ đợi, Việt Nam ráng bảo vệ môi trường biển không bị ô nhiểm để các sinh vật trong biển nẩy nở và sinh hoạt bình thường, cũng là một phần đóng góp vào giảm hiệu ứng hâm nóng toàn cầu. Rong biển cũng là một nguồn xăng-sinh-học và khí-sinh-học quan trọng ở nước ta.
 
Biện pháp giáo dục. Và hơn hết, giáo dục là quan trọng nhất. Ngay bây giờ, trẻ em phải được giáo dục ngay từ tiểu học để có “chất xám” về khoa học kỹ thuật, và ý thức “xanh” (green) về bảo vệ môi trường.
 
Tóm lại, Việt Nam cần phải có những kế hoạch phát triển kinh tế, giáo dục, với tầm nhìn xa, thấy rộng, để đi đúng với khuynh hướng khoa học và kinh tế của thời đại.
 
Cảm tạ: Giáo sư Tôn Thất Trình và Giáo Sư Thái Công Tụng xem bản thảo và góp ý cải thiện bài này.
 
 
  
Reading, 1 tháng 8 năm 2007
Trần-Đăng Hồng, Ph.D

 

 
 
  Số người đọc 419588 visitors (1084753 hits) kể từ 12/10/2007  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free