Lên mạng ngày 26/9/2008
Hóa chất an tòan, không sử dụng thành phần độc hại, công nghê hóa học Hoa Kỳ, đi vào dòng chánh ?
G S Tôn Thất Trình
Có lẽ gần 2000 cơ sở hóa học và sản phẩm hóa chất , gần 4000 ( con số thống kê năm 2001 ) cơ sở sản phẩm chế biến cao su và plastic, dược phẩm …, doanh nghiệp đủ cở Việt Nam, đặc biệt doanh nghiệp acid sulfuric, chlorine, acid phosphoric Lâm Thao-Việt Trì; nitrogen trước đây theo kỷ thuật khí than cỗ lỗ sĩ trên bờ sông Thương gần Bắc Giang, nay từ khí dầu Phú Mỹ, Cà Mau; nhà máy xút, chlorine, và một số hóa chất khác trên bờ sông Hồng ở Việt Trì và các nhà máy hóa chất căn bản dầu lữa công nghệ plastics sắp có ở Dung Quất, Nghi Sơn; cácnhà máy chế biến dược phẩm Hà Nội và Sài Gòn, nhà máy cao su Sao Vàng ở Thượng Đình -Hà Nôi… nêu lưu ý cập nhật, đổi thay, thân thiện môi sinh, đúng tương lai xanh hơn chăng ?
Ngành công nghệ hóa học Hoa Kỳ , năm 2006 bán ra khắp thế giới 637 tỉ đô la Mỹ, 15 lần hơn tổng sản lượng quốc gia Việt Nam, nuôi sống hơn 7 triệu dân Mỹ đã bắt đầu tụ điểm hơn về y tế, an tòan môi sinh, nhưng thay đổi chỉ xảy ra chậm chậm mà thôi . Năm 2006, 12 công ty hóa học Hoa Kỳ gồm BASF, Dow, Dupont và Rohm and Haas đã thuê cố vấn, thám hiểm những phương cách làm những cơ sở của họ cho thân thiện môi sinh hơn. Tuy nhiên sau 1 năm khảo cứu, các cố vấn kết luận là ngành công nghệ “ mảnh liệt tự vệ “, đầy “ tinh thần boong ke – bunker mentality “ làm mọi tiến bộ khó khăn .
A -Gia thất đầy chất độc hại
Mọi phòng ốc gia thất Âu Mỹ ngày nay, đều trải bày dưới một lọat chất độc hại. Khỏang chừng 83 000 hóa chất bán ra ở thị trường Hoa Kỳ và đa số chúng được dùng cho sản phẩm tiêu thu.
1- Chất làm sạch phòng tắm : Chất làm sạch chậu vệ sinh – toilet có thể chứa acid hydrochloric hay acid sulfamic. Chất làm sạch bồn tắm và gạch lát nền có thể chứa sodium dichloroisocyanurate và ethylene glycol ethers.
2- Chất làm sạch trong nhà: Kính ( gương ) quầy phòng bếp, và gỗ có thể chứa ammonia, chlorine, 2- butoxlethanol, sodium hydrocide và triclosan
3- Vệ sinh cá nhân: Xà phòng, gội đầu – shampoo, nước thuốc- lotions và cácsa/n phẩm da hay tóc khác có thể chứa paraben, EDTA, phthalates, triclocarban và 1-4-dioxane, một chất gây ra ung thư.
4- Các chất kháng vi khuẩn: Xà phòng kháng vi khuẩn chứa triclosan hay triclocarban, là những chất thay đổi hormons. Chúng còn có cơ dẫn tới mầm bệnh đề kháng thuốc kháng sinh.
5- Kiểm sóat dịch bênh – pest: Rất nhiều thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ dại là những độc tố thần kinh-neurotoxins uy vũ
6- Chai sửa trẻ em bú: Các chai sửa trẻ em làm bằng plastic polycarbonate chứa bisphenol A – BPA. BPA là một chất bắt chước- mimic estrogen, có thể ảnh hưởng đến nảo bộ đang phát triễn, tuyến tiền liệt -prostate và các tuyến sửa. Các nhà khoa học Anh, đầu tháng 9/2008, khám phá khi nghiên cứu vĩ mô trên người là plastic-nhựa dẻo, tăng gia gấp đôi hiểm nguy các bệnh tim mạch, tiểu đường và các vấn đê gan, nhiều nhất ở nước tiểu. Khám phá này xác định những kết quả trước đây trên động vật cũng làm tăng áp lực trên Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ - FDA giới hạn sử dụng hóa chất BPA . Hợp chất BPA là thành phần chính yếu của các plastic polycarbonate , tìm thấy trên một lọat hàng hóa cận đại gồm luôn cả DVD, các côngtennơ tồn trữ các thực phẩm tái sử dụng được, các chai nước uống và các thấu kính mắt. Thế giới hiện dùng mỗi năm khỏang 7 tỉ cân Anh ( gần 3 tỉ kg ) và các Trung tâm Kiểm sóat và Ngăn Ngừa Bệnh ở Hoa Kỳ đã tìm thấy những mức độ dò được của chất này trong nước tiểu của 93 % dân Mỹ
7- Đồ điện tử gia thất: Computers, stêreô, và ti vi cũng chứa Deca-BDE, một chất làm chậm bốc cháy – flame retardant, tích lũy trong thân thể và môi trường và có thể có nhiều ảnh hưởng đế dây thân kinh và sinh sản.
8- Tường vách: Sơn tường có thể chứa chì – lead và các hợp chất hửu cơ . Cách ly – insulation tường vách có thể chứa formaldehyde.
9- Bàn ghế tủ giường : Nệm, gối có thể chứa các chất làm chậm bốc cháy, tích lũy trong thân thể con người và có cơ gây ra những ảnh hưởng phát triễn dây thần kinh.
10-Đồ chơi: Những vịt cao su, và những đồ chơi khác bằng vinyl có thể chứa phthalates, những chất bắt chước estrogen có thể có nhữing ảnh hưởng sinh sạn
11- Các sản phẩm giặt máy: Các chất tẩy sạch – detergents và những sản phẩm khác có thể chứa clorine,sodium hydroxide3, sodium sulfatevà phosphates
12- Tủ, kệ: Kệ, tủ phòng bếp có thể chứa formaldehyde, một chất gây ra ung thư
B- Mười hóa chất đầu sổ sản xuất ở Hoa Kỳ
Trong số 83 000 hóa chất sản xuất ở Hoa Kỳ, nhiều chất sản xuất dưới những số lượng vĩ đại, trên 1 triệu tấn ( 1 tỉ kg ) một năm. Năm 2006, 10 chất đầu sổ, gồm nhiều chất dùng làm phân bón hóa học và nhựa dẽo- plastics, để tẩy uế hay để trị nước và phế thải :
· Acid sulfuric: Hoa Kỳ sản xuất 39.6 triệu tấn, trị giá 2.24 tỉ đô la Mỹ. Dùng chế tạo phân bón hóa học và các hóa chất khác, các chất nhuộm – dyes
· Nitrogen: sản xuất 34.7 triệu tấn một năm, trị giá 1.67 tỉ .Dùng chế tạo phân bón hóa học, sản xuất ammonia và các hóa chất khác, làm lạnh thực phẩm
· Polyethylene: sản xuất 34.4 triệu tấn, trị giá 27.8 tỉ. Đây là chất dẻo dùng làm bao bì gói hàng, phim, bao rác, tả lót, đồ chơi, bọc dây,đồ dùng trong nhà
· Oxygen: 27.6 triệu tấn, trị giá 2.36 tỉ. Lò đốt công nghệ, y tế, trị nước thải ống cống, phân bón hóa học, plastics
· Ethylene: 27.6 triệu tấn, trị giá 27.75 tỉ.. Dùng chế tạo plastics
· Vôi: 19.8 triệu tấn, trị gía 1.65 tỉ . Dùng chế tạo thép, xi măng, trị phế thải ống cống, xây cất, thuốc trị sâu, bệnh, cỏ ( dịch bệnh ), sản xuất aluminium, lọc đường
· Tro sô đa ( sodium carbonat ): 11.9 triệu tấn., trị gía 930 triệu đô la. Dùng làm kính ( gương ), bột giấy và giấy, chất tẩy sạch, trị nước, sản xuất aluminium, tơ sợi.
· Acid phosphoric: 11.8 triệu tấn, trị gíá 3.32 tỉ. Dùng làm phân bón, xà phòng và các chất tẩy sạch, kim lọai chống rĩ sét- rust proofing, dược phẩm .
· Chlorine: 11.4 triệu tấn, trị giá2.38 tỉ. Dùng làm chất hòa tan, plastics, chất làm chậm bốc cháy, làm sạch nước, chế biến thực phẩm, dược phẩm.
· Ammonia: 11.0 triệu tấn, trị giá 3.38 tỉ . Dùng làm phân bón hóa học, acid nitrịc, lọc dầu .
C –Tái trang kho hóa chất Hoa Kỳ, hiện là một phụ thuộc hiểm nguy
Trường hợp Chlorine ( Clor ) thiết yếu
Năm 2006, Hiệp Hội Âu Châu Chấp thuận một đạo luật hóa chất thật khắc khe cho cả thế giới, đòi hỏi các công ty phải đưa ra những dữ liệu y tế và an tòan cho khỏang 30 000 hóa chất. Hóa chất nào nguy hiểm nhất cấm dùng, cấm sản xuất. Bang California cũng cố tâm đẩy mạnh hóa học xanh, từ một hốc tường thành dòng chánh. Sau gần 18 tháng thăm hỏi và phân tích ý kiến, các chức quyền Ca Li sắp sửa trình lên thống đốc những khuyến cáo của họ, vào cuối tháng 9 năm 2008.
Bước đầu, Thống đốc và Quốc hội bang, dự kiến một đạo luật mới, yêu cầu các nhà khoa học của bang định giá trị các hóa chất dùng cho sản phẩm tiêu thụ và qui định cách nào giảm thiểu hiểm nguy của chúng. Các nhóm môi sinh đang thúc dục Ca Li nhấn mạnh đến các chất thay thế an tòan hơn. Ngành công nghệ hóa học, chống lại luật Hiệp Hội Âu Châu, thì lại thúc dục bang Ca Li cống hiến ngân khỏan, giáo dục và khích lệ hơn là cấm đóan.
Michael Walls, phó chủ tịch nhóm thương mãi công nghệ hóa học, Ủy Ban Hóa Học Hoa Kỳ, nói: chúng ta không bao giờ đủ khả năng loại bỏ dùng chất độc hại- toxics và duy trì phẩm giá đang có, cho đời sống và y tế Hoa Kỳ được. Chúng ta phải hiểu biết những hiểm nguy và phí tổn, lợi ích lọai bỏ một hóa chất. Hiểm nguy không thể duy nhất đưa tới quyết định .
Chẳng hạn chlorine có thể rất nguy hiểm. Không những chlorine dễ làm chết người khi hít vào, mà nhiều công thức chế biến đã làm hư hại tầng ozone, khởi kích xói lở bờ so6ng, tốn hàng tỉ đô la để sửa chửa và đã tuyệt diệt vài lọai chim chóc bắt mồi.
Chlorine có lẽ cũng là hóa chất cần thiết nhất, sử dụng hiện thời ở xã hội văn minh.
Rob Simon , giám đốc quản lý cục chlorine, Ủy Ban Hóa Học Hoa Kỳ nói : chúng tôi đang bị ép buộc mạnh mẽ phải tìm cho ra một hóa chất công dụng rộng rải như chlorine. Dù có những chất thay thế cho vài công dụng của chlorine, nhưng lại có rất ít chất thay thế cho vài công dụng khác, tỉ như tẩy trùng nước. 93 % thuốc tây chế tạo bằng chlorine
Công nghệ dược phẩm còn tụt hậu hơn nhiều công công nghệ khác, trong cố gắng tìm cho được những kỷ thuật “ xanh” hơn. Cứ mỗi kg thuốc tây họ chế tạo, các hảng dược phẩm sử dụng hơn 100 kg hợp chất chứa chlorine và những chất hòa tan –solvents khác, bị thảy ra xa. Để so sánh, ngành công nghệ dầu, phế thải một số lượng chất hòa tan ít hơn nhiều: chỉ 0.1 kg cho mỗi kg sản phẩm thôi.
Tracy Williamson, chánh sở hóa học công nghệ của EPA- Cơ quan Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ nói: Các sản phẩm cao kỷ hơn thường phí phạm hơn và công nghệ dược phẩm là một thí dụ điển hình. Kim Albizati, cựu giám đốc điều hành khảo cứu hóa học tại hảng Pfizer, nói rằng một kỷ thuật hửu hiệu hơn , sử dụng chất xúc tác- catalysts làm bằng enzyms , tạo ra bằng cách làm tinh dòng các sinh vật thiên nhiên , có thể thay các chất hòa tan. Theo ông, công ty Pfizer đã tiết kiệm 1 tỉ đô là suốt đời sống, tuổi thọ một dược phẩm, sau khi nhóm ông sáng chế phương cách biến các enzym thành chất xúc tác.
Nếu bạn thực dụng hóa học xanh, bạn sẽ làm bớt ngay phí tổn. Không cần nêu thêm vấn đề gì nữa hết , theo lời Albizati, đồng thiết lập BioVerdant , một hảng khảo cứu hóa học tại thành phố San Diego, chuyên môn về những giải pháp thân thiện môi sinh cho các công ty dược phẩm.
Nhiều hảng chế tạo dược phẩm vãn còn xem hóa học xanh là đã làm chậm trễ đi các khảo cứu của họ. Làm ra một thuốc tây bán trước tiên, quan trọng cho các công ty hơn là xanh hay cắt bớt phí tổn. Neil Hawkins, phó chủ tịch cục vững bền tại công ty Dow, chế tạo chlorine và khỏang 20 000 hợp chất lại nói rằng: Dow luôn luôn cứu xét những thay thế cho mọi sản phẩm. So với 10 năm trước đây, nay thật dễ dàng thương mãi hóa hơn vài sản phẩm ( xanh ) này. Theo Hawkins, đây là một phong trào thực sự tại mọi đại công ty hóa hoc.
Joseph Koester của Cognis, một hảng hóa học chế phẩm đặc thù, đã tạo ra các chất tẩy sạch căn bản dừa và bắp gia dụng, nói: đối với các sản phẩm tiêu thụ, thọat tiên các hóa chất xanh thường có phí tổn cao hơn là các hóa chất dầu lữa. Vì chiết trích vật liệu thô từ các thực vật là một tiến trình phức tạp hơn, và chế tạo xảy ra ở kích thước nhỏ hơn. Theo ông khởi sự hóa học xanh là một ứng dụng hốc tường – niche application, có nghĩa là xa lạ hơn và đắt tiền hơn. Tuy nhiên khi kích thướng tăng gia, mở rộng ra, thì cạnh tranh thuận lợi hơn. Còn Nilesh Shah , công ty Rohm and Haas, giám đốc khảo cứu hiệu năng các vật liệu nói rằng nhiều sản phẩm không độc hại chắc chắn sẽ thất bại , vì lý do tổn phí quá cao. Bất cứ sản phẩm nào phí tổn cao hơn và muốn thành xanh để được gọi là xanh, sẽ không vững bền được đâu. Nhưng nếu sản phẩm là xanh , đắt tiền hơn mang theo vài công dụng mới, thế thì chúng có hy vọng.
Thoải mái , dễ dàng, chớ không phải phí tổn
Điều hòa – regulations tiếp tục là lực uy vũ nhất, thúc đẩy thị trường. Thập niên 1980, hảng Rohm Anh Haas phát triễn một hợp chất phân giải sinh học ngăn ngừa rong tảo tăng trưởng trên thân tàu thủy. Nhưng ngành công nghệ đóng tàu không thấy lợi ích gì dùng các chất chống dơ bẩn này, mãi đến vài năm gần đây , khi EPA cấm dùng hợp chất cũ kỷ căn bản thiếc.Hợp chất này tích lũy trên càc dòng sông, rạch và giết chết đời sống thủy sinh, dưới nước.
Katy Wolf, một cựu nhân viên khoa học nghiên cứu chính sách quốc phòng Mỹ Ranch Corporation, nay là giám đốc Viện Hổ trợ Khảo cứu và Kỷ thuật ở Glendale, Ca Li nói: có một rào cản lớn cho đổi mới, thay đổi. Tôi đã chứng minh cho nhiều công ty là phí tổn của họ, nhưng họ không lay chuyễn và họ sẽ không thay đổi , nếu không có điều hòa mới, buộc họ phải thay đổi. Ai nấy ở Mỹ đều nghĩ rằng công nghệ Hoa Kỳ luôn luôn nhìn tận đáy căn bản. Nhưng thực tế, họ không nhìn như thế đâu. Họ nhìn vào những gì dễ dãi, thỏai mái nhất.
Hiện nay hóa chất dầu lữa vẫn còn là nền tảng của cách mạng công nghệ cận đai. Rất nhiều hóa chất qui ước đều có nguồn gốc dầu lữa. Tuy nhiên, một lực mới kinh tế, đó là dầu lữa giá cao, có thể cuối cùng ra, khiến các công ty lừng khừng phải nhìn kỷ hơn các hóa chất xanh. Hawkins hảng Dow, nói:ý niệm rằng hóa chất dầu lữa rẽ rề, không đắt tiền, là một ý niệm nhất thời. Mọi điều bạn cần làm, là nhìn vào giá cả dầu lữa trên 100 đô la Mỹ một thùng!