Lên mạng ngày 17/1/2009
Vài khoa học kỷ thuật, có lẽ Việt Nam nên hiểu biết rỏ thêm chăng
GS Tôn Thất Trình
A- Liên quan dến môi sinh , sinh thái
1- Những chất khí nhà kiếng khác CO2, carbon dioxide
Khi ai đó nghĩ tới thay đổi khí hậu, họ nghĩ đến carbon dioxide- CO2. Dù cho hiện nay, 77 % của mọi khí phát thải con người làm ra là carbon dioxide, tương đối góp phần này đang giảm dần. Theo hai nghiên cứu đăng tải cuối năm 2008, mức khí trong khí quyễn của hai khí uy vũ ảnh hưởng đến đổi thay khí hâu đăng tăng lên : đó là nitrogen trifluoride - NF3 và methane .
- Nitrogen trifluoride được dùng chế tạo các vật dụng bán lẽ tỉ như microchips - vi xử lý hay các ti vi màn hình dẹp - flat screen tivi . Trên một nghiên cứu đăng ở tạp chí Văn thư Khảo cứu Địa lý học- Geographical Research Letters , các nhà khảo cứu đã phân tích các mẩu không khí và tìm thấy là NF3 ở khí quyễn tuồng như tăng thêm khỏang 11% mỗi năm trên địa cầu . NF3 lang thang ở không khí trong vòng trung bình 550 năm và chụp bắt giam nhiệt lượng 17 000 lần tốt hơn CO2 , tính theo mỗi phân tử cho mỗi phân tử. Ngày nay ảnh hưởng của NF3 chỉ mới là 0.04 % của carbon dioxide , nhưng vai trò của nó có thể gia tăng thêm nhiều nếu có thêm nhiều nhà chế tạo bắt đầu sử dụng nó , theo lời tác giả nghiên cứu Ray Weiss ttại viện Scripps và Đại Dương Học Hiện thời không có chánh phủ nào trên thế giới điều hành NF3 cả thảy .
- Methane là vấn đề tức thời hơn nữa về thay đổi khí hậu. Methane được giải tỏa từ những nơi đổ rác, lấp trũng, nơi băng giá vĩnh viễn đang tan chảy- melting permafrost và các phương thức khai thác nông nghiệp, đặc biệt chăn nuôi bò , bò sửa kiểu Âu Mỹ. Mức độ các khí này ngày nay gia tăng sau 8 năm ứ đọng, theo một nghiên cứu khác, cũng của Geophysical Research Letters. Methane tồn tại trong khí quyễn , chỉ lâu bằng 1/10 của khí CO2 - khỏang chừng 10 năm - nhưng chụp bắt giam nhiệt lượng 20 lần hơn .
Chưa ai biết ảnh hưởng của methane và NF3 sẽ quan trọng như thế nào làm gia tăng nhiệt độ tòan cầu, nhưng Ralph Kahn, nhà khoa học khí hậu của NASA nói rằng một điều đã được xác nhận : “ là có nhiều chất khác cũng đáng lưu tâm như là CO2 vậy đó “. James Crawford , đồng nghiệp của Kahn tiếp lời : “ có nhiều người, nhiều cơ quan đang nhìn xem điều này , cố gắng tìm hiểu việc gì đang xảy ra”
2-Thử nghiệm xem than đá sạch ra sao ? .
Nhà máy điện chạy than đá “ sạch “ đầu tiên khai trương tháng 9 năm 2008 ở Spremberg , miền đông Đức Quốc. Những nhà máy điện chạy than đá cỗ truyền gây ra 36% mọi phát thải carbon dioxide ở Hoa Kỳ, vẫn còn là nguồn năng lượng lớn nhất ,cũng như gây ô nhiễm không khí, quanh thế giới.
Kỷ thuật làm than đá sạch không giải tỏa CO2 vàokhông khí . Thay vào đó , chúng dùng những nơi chụp bắt và tồn trữ carbon - CCS thu thập khí này , cô đặc khí và bơm sâu xuống những nơi tồn trữ vĩnh viễn các hình thành địa chất thiên nhiên. Ít nhất đó là ý niệm. Cho đến nay chưa bao giờ có một hệ thống CCS họat động làm nhiệt điện than đá .
Nhà máy kiểu mẩu ở Spremberg, do hảng tiện ích Vattenfall, Thụy Điển xây dựng, tụ điểm trên vế chụp bắt carbon ở phương trình. Trước tiên đốt than đá , làm sôi nước và sản xuất ra hơi nước, chạy tua bin tạo ra điện. Rồi khí phế thải còn lại, phần lớn là carbon dioxide và nước, đựợc chu trình lại vào nồi nước. Khí cô đặc sẽ được kỳ cọ- scrubbed , theo một tiến trình làm cô đặc carbon dioxide. Bằng các chất hấp thu sulfur, lấy đi những hợp chất gây ra mưa acid. . CO2 còn lại sẽ được cô đặc, ép nén thành một chất lỏng dưới áp xuất cao và làm lạnh đến - 18 độ F, khiến nó vẫn duy trì dạng chất lỏng. Vattenfall đang dự tính chuyễn tải bằng xe cam nhông đioxide lỏng đếncách đó hơn 100 dặm Anh, nơi có một mỏ khí dầu thiên nhiên đã khai thác hết, bơm xuống khỏang 1000 m tồn trữ CO 2 dưới đất
Vattenfall hy vọng lớn về kỷ thuật than đá sạch . Nhưng hảng chỉ xem tiến trình này là nhịp cầu nối với những kỷ thuật năng lượng tái sinh - renewable energies, hơn là một giải pháp vĩnh viễn cho thay đổi khí hậu. Saffan Gortz của hảng Vattenfall nói: “không chóng thì chầy , chúng ta phải cố tìm một cái gì mới mẽ khác . Kỷ thuật vừa kể cũng chỉ cốt mua thêm thời gian mà thôi. “
3- Cái gì cũng trở thành dầu lữa ?
Dầu lữa thô - crude oil là một tài nguyên tái sinh ? Nhiên liệu hóa thạch - fossile fuel qui ước cần hàng triệu năm mới thành hình, nhưng một trú ẩn kiên định các nhà luyên kim - luyện đan alchemists cận đại đã gia tốc mạnh mẽ tiến trình nung nấu cho mau thành dầu thô sinh học - biocrude , một nhiên liệu tương tự dầu lữa sản xuất trong vòng hai tháng thôi, từ các rác rưới đô thị hay các phế thải dư thừa nông nghiệp . Nhiên liệu sinh học - biofuel theo định nghĩa là nhiên liệu phát sinh từ sinh khối - biomass , những cây cỏ, thực vật hay động vật còn sống hay mới chết.
Thành công giới hạn của Thay đổi Kỷ thuật Thế giới - Changing World Technologies ( CWT), một hảng tiền phong dầu thô sinh học, nguyêt san Discover - Khám Phá trình bày công trình lần đầu tiên năm 2003 , tiết lộ rằng có nhiều thách đố hơn là nhìn tận mắt tạo dựng một môi sinh thân thiện , một công nghệ kinh tế sống được từ phế thải đến nhiên liệu. Dù cho kỷ thuật họat động, CWT vẫn chưa đủ kích thước đại trà biến phế thải thành dầu lữa, để có lời.
Nhà máy CWT ở thành phố Carthage , bang Missouri - Hoa Kỳ, sử dụng nhiệt lượng và áp xuất chế biến khỏang 78 000 tấn phế thải một năm thành ra 36 triệu lít nhiên liệu. Trong khi nhà máy trên lý thuyết có thể chuyễn hóa bất cứ chất liệu gì chứa một nguyên tử carbon, CWT đã đẩy mạnh tiến trình tiêu thụ lông gà tây ( gà lôi - turkey ), lòng , đầu , máu và những phó sản của nhà máy chế biến Butterball kế cận . Butterball là nhãn hiệu nổi danh của sản phẩm gà tây , dân Hoa Kỳ tiêu dùng từ năm 1954. Thành quả là dầu thô sẳn sàng để lọc , song song với các phó sản , tỉ như phân bón thể đặc và nước ? Nhưng với giá nào đây ?
Kỷ thuật chỉ là một thành công khi nào bạn kể thêm các thừa tố phí tổn họat động cao của CWT và canh tranh càng ngày càng mảnh liệt sử dụng phế thải là nguyên liệu thô cho nhà máy. Nhà máy Carthage bán ra một sản phẩm dầu lữa chưa lọc, nghĩa là ít giá trị hơn nhiều nhiên liệu khác, phần chính cho các nhà máy nồi nấu công nghệ - industrial boilers ở các cơ sở chế tạo. 3 tháng đầu năm 2008, dầu thô sinh học CWT bán gía 0. 99 đô la một ga lông ( 4 lít ). Dù cho Liên Bang trợ cấp thêm 1 đô la Mỹ một ga lông, nhà máy thu lợi tức từ việc bán dầu thô sinh học, còn ít hơn cả giá phải trả mua các dư thừa gà tây Butterball, trong quý đầu năm 2008 .
Và phí tổn mua phế thải nông nghiệp lại đang gia tăng . Dù hiện nay CWT đã có thỏa hiệp cung cấp với Butterball để chế biến động vật và thực phẩm phế thải, hảng gà tây đang xét xem bán thăng dư mỡ và da cho các hảng nhiên liệu sinh học khác . Một nhà cung cấp dự liệu khác là hảng chế biến gà khổng lồ Tyson Foods cũng đã chung sức với hảng lọc dầu ConocoPhillips làm nhiên liệu diesel tái sinh, bổ sung cho diesel qui ước ở trạm lẽ bán xăng .
Tình trạng càng thêm tệ hại hơn nữa về một nguồn nguyên liệu khác cho CWT . . Đó là rác rưới đô thị, đang trở thành một hàng hóa nóng bỏng. Các nhà sáng kiến Phế Thái thành Điện , đã tìm thấy một lọat phương pháp biến các pha trộn đang mục rữa trong xe cam nhông đổ rác rưới trung bình, thành một khí đốt cháy được ( tỉ như khí methane ) đốt cháy sản xuất điện, một tiến trình dễ dàng hơn là sản xuất tạo nhiên liệu lỏng . Dù ở liệt kê ngắn lựa chon các hảng cho một dự án biến chế phế thải thành nhiên liệu cho quận Los Angeles tháng 10 năm 2007, hảng CWT cuối cùng đã bị lọai bỏ, nhường chỗ cho các hảng biến phế thải thành điện.
Một duyệt xét tòan diện các lựa chọn nhiên liệu sinh học của Cơ quan Nhiên Liệu Tái Sinh Anh Quốc - U.K.Renewable Fuels Agency, giải tỏa tháng 7 năm 2008, kết luận là ngòai những thách thức họat động còn phải cọng thêm giá trị thấp kém của nhiên liệu, và sẽ duy trì dầu thô sinh học ở vùng biên tế nguồn cung cấp nhiên liệu trên thế giới, mãi cho đến sớm nhất là năm 2020. Bản duyệt xét U. K. nhấn mạnh là không còn đủ phế thải, rác rưới ở Hiệp Hội Âu Châu, hầu hổ trợ mục tiêu tạo ra điện .
Vài người nghĩ rằng CWT sẽ phải tự sáng tạo thêm , mới thắng lợi cạnh tranh. Mark Mauss, chủ tịch công ty SunsOil, một hảng chế biến mỡ động vật, dầu thực vật thành diesel sinh học, tin rằng hảng nhìn xa CWT sẽ thành công Ông nói thêm : thế nhưng cố gắng làm dầu thô sinh học của CWT, biến bất cứ cái gì ra dầu lữa là một mục tiêu quá khó khăn cho các hảng mới ra lò .
Tin tức tốt đẹp là thị trường nhiên liệu thay thế ( đầu lữa ) rộng lớn hơn, tiếp tục tăng trưởng. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, dựa tòan cầu vào nhiên liệu sinh học sẽ tăng hơn gấp ba, vào năm 2030. Dù phương thức của CWT hay không phải CWT , biến chế bất cứ cái gì thành dầu có sống còn nữa chăng , tuồng như các thay thế dầu lữa vẫn có cơ tồn tại .
4- Sản phẩm xây cất , cư xá “ xanh” có nhiều đức tính sinh thái , nhưng bạn có thể không được kể hết tòan thể câu chuyện
Nếu bạn thích mua một nhà ở tốt đẹp, tráng kiện môi sinh hay cư ngụ tại một khu cộng đồng bền vững, bạn cần thân thuộc với từ ngữ “ tắm rữa xanh -green washing “, trên căn bản có nghĩa là tuyên bố điều gì tráng kiện môi sinh, trong khi thật sự không đúng như vậy.
Một từ phối hợp những từ “ xanh “ và “quết vôi trắng - whitewash “ do nhà môi sinh ngọai ô New York Jay Westerveld, đặt ra năm 1986, trong một tiểu luận liên quan đến các thủ pháp của ngành công nghệ khách sạn, đề cao tái dụng khăn lau các khách trọ , trong một cố gắng tiết kiệm nước, thực sự không có gì là cố gắng về tái dụng phế thải cả.
Ngày nay tắm rữa xanh còn có tên là “ sán lạn xanh - green sheen “ lan tràn khắp nơi, lúc các công ty đổ xô chiếm ưu thế những thích thú dâng cao của người tiêu thụ , về các sản phẩm ích lợi cho môi sinh.
Xanh đầy rẫy mọi nơi, khiến cho Ủy Ban Thương Mãi Liên Bang Hoa Kỳ đã phải duyệt lại những chỉ dẫn thị trường môi sinh, một năm trước dự liệu. Những chỉ dẫn gọi là xanh , chưa được cập nhật ở Hoa Kỳ, kể từ năm 1998, phát họa những nguyên tắc mọi thị trường môi sinh. Duyệt xét dự trù bắt đầu tháng giêng năm 2009, nhưng vì các tuyên bố quảng cáo xanh nhảy vọt cho nên cơ quan kiểm sóat “ chó giữ nhà - watch dog “ cho người tiêu thụ Mỹ, quyết định hành động sớm hơn .
Có lẽ chưa có công nghệ nào ôm chồm các thần chú xanh hơn là ngành xây cất gia cư, nhà ở tại Hoa Kỳ.
Carl Seville , nhà cố vấn xây cất xanh nói rằng , dù rất nhiều nhà xây cất đã xưng là xanh, đa số chưa đến mức xanh đâu. Thành quả là những ai ở Decatur , bang Georgia, Hoa Kỳ, muốn mua nhà xanh, sẽ không bíết là mình bị lừa gạt . Jennifer Languell, một cố vấn được công nhận khắp Hoa Kỳ, giúp cho các nhà xây cất và phát triễn tạo ra những dự án lành mạnh, hửu hiệu, bền vững cho rằng tắm rữa xanh không những “ trải rộng ra mọi quang phổ “ của thị trường nhà cửa, mà còn rất cực thịnh nữa. Bà nói : Rất nhiều nhà xây cất làm rất ít để nói là xạnh. Thái độ thông thường là
“ làm tối thiểu” . Ít khi nhà xây cất thật sự muốn nâng thêm thanh nhảy cao .
Languell, chủ tịch hảng Trifecta Construction Solutions cho Fort Myers , bang Florida, nói là bà thấy thổi phồng những ảnh hưởng xanh ở các sản phẩm xây cất , dùng làm nhà riêng cho một gia đình, cũng như cho tòan thể dự án. Tháng chạp năm 2007 , hảng thị trường môi sinh TeraChoice ở Ca nada đã đề cao bà. Trên một nghiên cứu của 6 hộp lớn tiệm bán lẽ, Terra Choice chỉ tìm thấy một sản phẩm tiêu thụ trong số 1 018 sản phẩm thử nghiệm, là không tuyên bô” giả dối về tính chất xanh. Tại sao vậy ?.Tại vì thật sự không có cái gì là thuần túy xanh cả thảy ., chỉ xanh hơn mà thôi .
Trong số vấn đề cho khu vực, TerraChoice lưu ý đến :
- - những chuyễn đổi che đậy - hidden trade off. Rất nhiều nhà chế tạo tuyên cáo một sản phẩm là xanh, căn cứ trên một thành phần môi sinh duy nhất và cố tình bỏ qua những thừa tố khá . Ở đây, Languell nói là các nhà chế tạo đã lợi dụng sự kiện là nhà tiêu thụ trung bình không có mảy may chứng cớ về các giai đọan chế tạo hay giai đọan sử dụng các sản phẩm của họ .
- Hãy lấy trường hợp của cách ly phun bọt - spray-foam insulation . Đây là một sản phẩm tiết kiệm lớn năng lượng. Nó giản nở để si kín mọi mối nối. Nhưng lại không nói gì đến sự kịện nó làm ra từ căn bản nhiên liệu hóa thạch. Các pannen photovoltaic là một thí dụ tốt đẹp khác . Chúng rất hay để chụp bắt năng lượng mặt trời . Nhưng theo Languell, chúng xài nhiều năng lượng hơn để chế tạo và chuyên chở pannen so với số năng lượng chúng sản xuất ra suốt đời sống ích lợi của chúng .
- - Không chứng cớ- no proof . Nhìều nhà chế tạo tuyên bố là sản phẩm của họ rất thân thiện môi sinh, nhưng không đưa ra một chứng nhận nào đáng tin cây từ một nguồn thứ ba, ngọai cuộc - third party. Kiểm tra được, bằng chứng độc lập là điều duy nhất nhà tiêu thụ có thể tin cậy.
- -Mơ hồ- vagueness . Các nhà chế tạo dùng những tuyên bố định nghĩa thấp kém, những từ tỉ như “ sạch hóa chất- chemical free “ hay “ không độc hại - nontoxic “. người tiêu thụ thường hiểu lầm . Tuyên bố mơ hồ , tỉ như khi nói là “Thân thiện Trái Đất-Earth friendly, thường tỏ ra vô nghĩa .Ở doanh nnghiệp xây cất , từ “ tất cả là thiên nhiên- all natural” thường được nói qua nói lại. Như thế thì formaldehyde là thiên nhiên . Cũng như radon và uranium ! nhưng chúng rất là tai hại .
- - Không thích hợp - irrelevance. Ở đây tuyên bố có thể thành thật tế, nhưng ít mang ý nghĩa. “ Sạch CFC- free “ thường được rêu rao khoác lác, thế nhưng các chlorofluorocarbons đã bất hợp pháp ở Hoa Kỳ 30 năm rồi. Những chóp vòi hoa sen dòng chảy ít bảo tồn nước, nhưng chánh phủ Hoa Kỳ đã ban pháp lệnh từ năm 1991 . Tương tự như thế, các nhà phát triễn khoe khoang là những dự án của họ chứa nhiều hecta vùng ẩm thấp, đồng lầy hay khỏang trống. Languell nói : “ đúng là nhiều chuyện “ vì nếu họ thiếu hai điều kiện vừa kể , họ sẽ không được phép xây cất, phát triễn. Họ đã đề xướng những gì họ phải có, để có phép họat động. “
- - Bịa đặt vô hại - fibbing. Tuyên bố thẳng thừng môi sinh giả dối . Tỉ như xác nhận của người ngọai cuộc là một tội lỗi thường xuyên trong doanh nghiệp xây cất gia cư . “ Trét Năng lựợng Ngôi Sao - Energy Star caulking ”là một khẳng định Languell thường thấy. Nhưng không bao giờ có điều này cả thảy. Thật vậy, trét chận đứng rò rĩ không khí và như vậy góp phần vào hửu hiệu năng lượng. Nhưng không phải l sản phẩm là quan trọng mà chính là phương thức sử dụng sản phẩm.
- - Điểm nào it xấu xa hơn . Ở đây , các nhà chế tạo nhấn mạnh đến một khía cạnh của sản phẩm, không lý gì đến những ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Tỉ dụ, thuốc diệt trừ sâu bọ, phân bón hóa hóa học , có thể là xanh . Nhưng vấn đề quan trọng hơn khi chúng có trôi chảy làm ô nhiễm sông ngòi không?
- Tóm lại làm sao một người đi mua nhà lại có thể phân biệt những gì là khoác lác , những gì là thành thật ?
Đối với ai mới khởi sự, hãy chắc chắn là nhà xây cất theo đúng một chương trình xanh. Hiện ở Hoa Kỳ có nhiều chương trình quốc gia và một tá chương trình miền hay địa phương. Ngòai điều này, cũng nên chắc chắn là có nguồn thứ ba, thành phần ngọai cuộc độc lập xác nhận công trình nhà xây cất. Đừng tin duy nhất vào lời nhà xây cất. Hãy đòi hỏi tài liệu . Nếu họ được xác nhận thì họ sẽ có giấy tờ. Sau đó , nghĩ đến gia cư như một hệ thống, không phải một bó vật liệu xanh. Hiệu năng tổng quát là khẩn thiết. Đừng có bị lòa mắt vì một khía cạnh xanh , mà quên hết mọi khía cạnh khác. Theo Seville, đặt vật liệu xanh vào một xây cất dỡ, kém cỏi , không làm cho xây cất xanh đi . Xanh là một tiến trình Nó là hửu hiệu năng lượng, phẩm gía không khí , lâu dài và bền vững. Mọi thứ đều khâu khít nhau theo một hệ thống có cấu tạo đúng cở .
Trở lại Trang Khoa Học